Chiến tranh Palestine 1948

Chiến tranh Palestine 1948
Một phần của xung đột liên cộng đồng ở Lãnh thổ Ủy trị Palestine, xung đột Ả Rập – Israelxung đột Israel–Palestine

Các binh sĩ Ả Rập trước một chiếc xe tải bọc thép của Haganah đang bốc cháy gần thành phố Jerusalem (k. 1948)
Thời gian30 tháng 11 năm 1947 – 20 tháng 7 năm 1949
(1 năm, 7 tháng, 2 tuần và 6 ngày)
Địa điểm
Kết quả
Thay đổi
lãnh thổ

Hiệp định đình chiến 1949:

  • Thành lập Nhà nước Israel
  • Cộng hòa Ả Rập Thống nhất chiếm đóng Dải Gaza và thành lập Chính phủ Toàn Palestine
  • Jordan sáp nhập Bờ Tây (bao gồm cả Đông Jerusalem)
  • Chỗ đứng của Syria được thiết lập ở phía bắc và phía nam Biển hồ Galilee
Tham chiến

Yishuv
(trước 14 tháng 5 năm 1948)
 Israel
(sau 14 tháng 5 năm 1948)


Trước 26 tháng 5 năm 1948:

  • Haganah
    • Palmach
    • Hish
    • HIM
  • Irgun
  • Lehi
  • Binh sĩ Druze[3][4]
  • Các bộ tộc Bedouin đồng minh[5][6]

Sau 26 tháng 5 năm 1948:


Tình nguyện viên quốc tế:

  • Mahal
  • Ủy ban Cấp cao Ả Rập
    (trước 15 tháng 5 năm 1948)
  •  Liên đoàn Ả Rập
    (sau 15 tháng 5 năm 1948)

  • Quân đội Giải phóng Ả Rập
  • Quân đội Thánh chiến
  • Al-Najjada
  • Ai Cập
    • Vùng bảo hộ Toàn Palestine (sau 22 tháng 9 năm 1948)
  • Transjordan
  • Syria
  • Iraq
  •  Liban
  •  Ả Rập Xê Út
  •  Yemen
Chỉ huy và lãnh đạo
  • Jordan King Abdullah I
  • Jordan John Bagot Glubb
  • Jordan Habis al-Majali
  • Nhà nước Bảo hộ Toàn Palestine Abd al-Qadir al-Husayni 
  • Nhà nước Bảo hộ Toàn Palestine Hasan Salama 
  • Liên đoàn Ả Rập Fawzi al-Qawuqji
  • Nhà nước Bảo hộ Toàn Palestine Haj Amin Al-Husseini
  • Ai Cập King Farouk I
  • Ai Cập Ahmad Ali al-Mwawi
  • Ai Cập Muhammad Naguib
  • Liên đoàn Ả Rập Abdul Rahman Hassan Azzam
Lực lượng
Israel: ban đầu ~10.000, tăng lên 115.000 vào tháng 3 năm 1949

Liên quân Ả Rập: ban đầu ~2.000, tăng lên 70.000, bao gồm:

  • Ai Cập: ban đầu 10.000, tăng lên 20.000
  • Iraq: ban đầu 3.000, tăng lên 15.000–18.000
  • Syria: 2.500–5.000
  • Transjordan: 8.000–12.000
  • 'Liban: 1.000[7]
  • Ả rập Xê Út: 800–1.200
  • Quân đội Giải phóng Ả Rập: 3.500–6.000
Thương vong và tổn thất
6.080 chết (khoảng 4.074 lính và 2.000 thường dân)[8] Khoảng +5.000[8] đến 20.000 (bao gồm cả thường dân),[9] trong đó có 4.000 binh sĩ Ai Cập, Jordan và Syria
Ước tính khác: 15.000 lính Ả Rập chết và 25.000 bị thương [10]

Chiến tranh Palestine 1948[a] là cuộc chiến diễn ra ở khu vực Lãnh thổ Ủy trị Palestine của Anh.[12][13][14][15][16][17] Trong chiến tranh, người Anh rút khỏi Palestine, các lực lượng theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái chiếm đóng lãnh thổ và thành lập Nhà nước Israel, và hơn 700.000 người Palestine đã chạy trốn hoặc bị trục xuất. Đây là cuộc chiến đầu tiên trong xung đột Israel–Palestine và rộng hơn là xung đột Ả Rập – Israel.

Cuộc chiến được chia thành hai giai đoạn chính. Giai đoạn đầu tiên là cuộc nội chiến 1947–1948 bắt đầu từ ngày 30 tháng 11 năm 1947,[18] một ngày sau khi Liên Hợp Quốc bỏ phiếu thông qua Kế hoạch phân chia Palestine về phân chia lãnh thổ thành các quốc gia có chủ quyền của người Do Thái và Ả Rập. Trong thời kỳ này, Anh vẫn duy trì quyền cai trị ngày càng suy yếu đối với Palestine và thỉnh thoảng can thiệp vào các hành động bạo lực.[19][20] Vào cuối giai đoạn nội chiến, các lực lượng theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái đã thực hiện Kế hoạch Dalet, một chiến dịch tấn công nhằm chinh phục lãnh thổ với mục đích thành lập một nhà nước Do Thái theo kế hoạch.[21]

Giai đoạn thứ hai của cuộc chiến bắt đầu vào ngày 14 tháng 5 năm 1948, với việc chấm dứt sự ủy trị của Anh và tuyên bố thành lập Nhà nước Israel. Sáng hôm sau, quân đội Ả Rập bao vây xâm lược Palestine, bắt đầu Chiến tranh Ả Rập – Israel 1948. Quân Ai Cập tiến về phía đông nam trong khi Liên đoàn Ả Rập ở Jordan và lực lượng Iraq chiếm được vùng cao nguyên trung tâm. Syria và Liban chiến đấu với lực lượng Israel ở phía bắc. Lực lượng Phòng vệ Israel đã ngăn chặn được đoàn quân Ả Rập và trong những tháng tiếp theo bắt đầu đẩy lùi họ và tái chiếm lãnh thổ. Đến cuối cuộc chiến, Nhà nước Israel đã chiếm được khoảng 78% lãnh thổ ủy trị trước đây, Vương quốc Jordan chiếm đóng và sáp nhập khu vực mà ngày nay là Bờ Tây, và Ai Cập chiếm đóng Dải Gaza. Chiến tranh chính thức kết thúc với Hiệp định đình chiến 1949, thiết lập “Đường Xanh” (Green Line) phân định các lãnh thổ này.

Trong chiến tranh, các vụ thảm sát và hành động khủng bố đã được cả hai bên tiến hành. Một chiến dịch thảm sát và bạo lực nhắm vào người dân Ả Rập, chẳng hạn như tại Lydda và Ramle và Trận Haifa, dẫn tới việc 700.000 người Palestine bị trục xuất và phải bỏ trốn, với phần lớn các đô thị bị mất dân số và bị phá hủy. Việc bạo lực và sự tước đoạt quyền sở hữu này của người Palestine ngày nay được gọi là Nakba (tiếng Ả Rập có nghĩa là "thảm họa")[22] và mở ra vấn đề người tị nạn Palestine.

Ghi chú

  1. ^ Người Palestine gọi các sự kiện năm 1948 là Nakba (tiếng Ả Rập: النَكْبَة‎, nghĩa đen là 'thảm họa'). Ở Israel, nó được gọi là Chiến tranh giành độc lập (tiếng Hebrew: מלחמת העצמאות‎; Milkhemet Ha'Atzma'ut).[11]

Tham khảo

  1. ^ Anita Shapira, L'imaginaire d'Israël : histoire d'une culture politique (2005), Latroun : la mémoire de la bataille, Chap. III. 1 l'événement p. 91–96
  2. ^ Benny Morris (2008), p.419.
  3. ^ Nisan, Mordechai (2015). Minorities in the Middle East: A History of Struggle and Self-Expression, 2d ed. McFarland. tr. 284. ISBN 978-0-7864-5133-3. This Jewish-Druze partnership was often referred to as a "covenant of blood," in recognition of the common military yoke carried by the two peoples for the security of the country.
  4. ^ “The Druze in Israel: Questions of Identity, Citizenship, and Patriotism” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2022.
  5. ^ Palestine Post, "Israel's Bedouin Warriors", Gene Dison, August 12, 1948
  6. ^ AFP (24 tháng 4 năm 2013). “Bedouin army trackers scale Israel social ladder”. Al Arabiya. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2015.
  7. ^ Pollack, 2004; Sadeh, 1997
  8. ^ a b Sandler, Stanley (2002). Ground Warfare: An International Encyclopedia. ABC-CLIO. tr. 160. ISBN 978-1-57607-344-5. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2019.
  9. ^ Esber, Rosemarie (2009). Under the Cover of War. Arabicus Books & Media. tr. 28.
  10. ^ Clodfelter, Micheal (2017). Warfare and Armed Conflicts: A Statistical Encyclopedia of Casualty and Other Figures, 1492–2015 (ấn bản 4). McFarland. tr. 572. ISBN 978-0-7864-7470-7.
  11. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên :0
  12. ^ Middle East Institute. The Palestinian Nakba: What Happened in 1948 and Why It Still Matters (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2022 – qua YouTube.[nguồn không đáng tin?]
  13. ^ Michael R. Fischbach, an American scholar of the archives of the United Nations Conciliation Commission for Palestine, estimates that, in all, Palestinians lost some 6 to 8 million dunams (1.5 to 2 million acres) of land, not including communal land farmed by villages or state land. Mattar, Philip (2005). “Al-Nakba”. Trong Mattar, Philip (biên tập). Encyclopedia of the Palestinians. Infobase. ISBN 9780816069866. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2022.
  14. ^ Firestone, Reuven (2012). Holy War in Judaism: The Fall and Rise of a Controversial Idea. Oxford University Press. tr. 10, 296. ISBN 978-0-19-986030-2. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2022. To Jews, the Jewish-Arab war of 1947–1948 is the War of Independence (milchemet ha'atzma'ut). To Arabs, and especially Palestinians, it is the nakba or calamity. I therefore refrain from assigning names to wars. I refer to the wars between the State of Israel and its Arab and Palestinian neighbors according to their dates: 1948, 1956, 1967, 1973, and 1982.
  15. ^ Caplan, Neil (2011). The Israel-Palestine Conflict: Contested Histories. John Wiley & Sons. tr. 17. ISBN 978-1-4443-5786-8. Perhaps the most famous case of differences over the naming of events is the 1948 war (more accurately, the fighting from December 1947 through January 1949). For Israel it is their 'War of Liberation' or 'War of Independence' (in Hebrew, milhemet ha-atzama'ut) full of the joys and overtones of deliverance and redemption. For Palestinians, it is Al-Nakba, translated as 'The Catastrophe' and including in its scope the destruction of their society and the expulsion and flight of some 700,000 refugees.
  16. ^ Caplan, Neil (1997). Futile Diplomacy: The United Nations, the Great Powers, and Middle East Peacemaking 1948–1954. 3. Frank Cass & Co. tr. 17. ISBN 978-0-7146-4756-2. Although some historians would cite 14 May 1948 as the start of the war known variously as the Israeli War of Independence, an-Nakba (the (Palestinian) Catastrophe), or the first Palestine war, it would be more accurate to consider that war as beginning on 30 November 1947.
  17. ^ “nakba” نكبة. Almaany (bằng tiếng Anh). tr. 1. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2021.
  18. ^ Morris (2008), p.77
  19. ^ Morris (2008), pp. 77–79
  20. ^ Tal (2003), p.41
  21. ^ Khalidi, Walid (1 tháng 10 năm 1988). “Plan Dalet: Master Plan for the Conquest of Palestine”. Journal of Palestine Studies (bằng tiếng Anh). 18 (1): 4–19. doi:10.2307/2537591. ISSN 0377-919X. JSTOR 2537591. 'Plan Dalet' or 'Plan D' was the name given by the Zionist High Command to the general plan for military operations within the framework of which the Zionists launched successive offensives in April and early May 1948 in various parts of Palestine. These offensives, which entailed the destruction of the Palestinian Arab community and the expulsion and pauperization of the bulk of the Palestine Arabs, were calculated to achieve the military fait accompli upon which the state of Israel was to be based.
  22. ^
    • Morris, Benny (2004). The Birth of the Palestinian Refugee Problem Revisited. Cambridge University Press. tr. 602–604. ISBN 978-0-521-00967-6. It is impossible to arrive at a definite persuasive estimate. My predilection would be to opt for the loose contemporary British formula, that of 'between 600,000 and 760,000' refugees; but, if pressed, 700,000 is probably a fair estimate
    • Memo US Department of State, 4 May 1949. Foreign Relations of the United States. 1949. tr. 973. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2019. One of the most important problems which must be cleared up before a lasting peace can be established in Palestine is the question of the more than 700,000 Arab refugees who during the Palestine conflict fled from their homes in what is now Israeli occupied territory and are at present living as refugees in Arab Palestine and the neighbouring Arab states.
    • Memorandum on the Palestine Refugee Problem, 4 May 1949. Foreign Relations of the United States. 1949. tr. 984. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2019. Approximately 700,000 refugees from the Palestine hostilities, now located principally in Arab Palestine, Transjordan, Lebanon and Syria, will require repatriation to Israel or resettlement in the Arab states.

Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “GilbertBookReview” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “Morris2008p47” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “Morris2008p412” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “unispal” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “morris2008p67” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “morris2008p116” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.

Lỗi chú thích: Thẻ <ref> có tên “morris2008p339” được định nghĩa trong <references> không được đoạn văn bản trên sử dụng.

Tài liệu

  • Abdel Jawad, Saleh (2006). “The Arab and Palestinian Narratives of the 1948 War”. Trong Robert I. Rotberg (biên tập). Israeli and Palestinian Narratives of Conflict: History's Double Helix. Indiana University Press. ISBN 978-0-253-21857-5.
  • Caplan, Neil (19 tháng 9 năm 2011). “War: Atzma'ut and Nakba”. The Israel-Palestine Conflict: Contested Histories. John Wiley & Sons. ISBN 978-1-4443-5786-8.
  • Yoav Gelber, Palestine 1948, Sussex Academic Press, Brighton, 2006, ISBN 978-1-84519-075-0
  • Efraim Karsh, The Arab-Israeli Conflict: The Palestine War 1948, Osprey publishing, 2002.
  • Walid Khalidi (ed.), All that remains. ISBN 978-0-88728-224-9.
  • Walid Khalidi, Selected Documents on the 1948 Palestine War, Journal of Palestine Studies, 27(3), 79, 1998.
  • Levett, Gordon (1991). “The 'Other' Airlift”. Air Enthusiast (44): 17–25. ISSN 0143-5450.
  • Benny Morris, 1948, Yale University Press, 2008, ISBN 978-0-300-12696-9
  • Ilan Pappe, The Ethnic Cleansing of Palestine, Oneworld Publications, 2006, ISBN 978-1-85168-555-4
  • Eugene Rogan & Avi Shlaim, The War for Palestine — Rewriting the history of 1948, Cambridge University Press, 2001.
  • David Tal, War in Palestine, 1948. Strategy and Diplomacy, Routledge, 2004.
  • Williamson, Bruce. "Caught in the Middle: Air Combat Between Israel and the RAF, 1948". Air Enthusiast 115, January–February 2005, pp. 2–10 ISSN 0143-5450
  • x
  • t
  • s
Thập niên 1940
Thập niên 1950
Thập niên 1960
Thập niên 1970
Thập niên 1980
Thập niên 1990
Xem thêm
Quan hệ Hoa Kỳ-Liên Xô • Quan hệ NATO-Nga
Địa chính trị
Siêu cường quốc • Khối phía Đông • Khối phía Tây • Nhà nước cộng sản • Thế giới tự do • Phong trào không liên kết • Trung Quốc cộng sản • Hội nghị Ba Lục địa 1966 • Địa chính trị dầu mỏ
Tổ chức
Chạy đua
Ý thức hệ
Tuyên truyền
Chính sách
ngoại giao
Học thuyết Truman • Kế hoạch Marshall • Chính sách ngăn chặn • Học thuyết Eisenhower • Thuyết domino • Học thuyết Kennedy • Cùng tồn tại hòa bình • Ostpolitik • Học thuyết Johnson • Học thuyết Brezhnev • Học thuyết Nixon • Học thuyết Ulbricht • Học thuyết Carter • Học thuyết Reagan • Rollback
Mốc sự kiện • Chủ đề • Thể loại • Hình ảnh
Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • GND: 4162598-5
  • LCCN: sh85068706
  • NKC: ph138770
  • NLK id KSH2002006027 không hợp lệ.